Một số vấn đề về bảo vệ cáp ngầm biển - Khoảng cách tách biệt cần thiết
Một số vấn đề về bảo vệ cáp ngầm biển - Khoảng cách tách biệt cần thiết
1. Tổng quan
Trước đây cáp ngầm biển tại Việt Nam phát triển không nhiều, chỉ gồm các tuyến cáp cấp điện cho một số đảo ven biển như Cô Tô, Cù Lao Chàm, Lý Sơn, Nhơn Châu, Phú Quốc…
Hiện nay đang xem xét cấp điện cho Côn Đảo, Nam Du… bằng cáp ngầm biển 110 kV.
Các tuyến cáp trong quá khứ chưa xem xét đến việc đăng ký khu vực biển cụ thể để phục vụ quản lý vận hành cũng như bảo đảm an toàn cho công trình. Hiện nay, theo quy định của pháp luật cần phải đăng ký khu vực biển cụ thể (có đóng phí tài nguyên), vì vậy cần phải xem xét một cách đầy đủ từ nhu cầu sử dụng khu vực biển trong lắp đặt, vận hành, bảo đảm an toàn công trình để có đăng ký phù hợp, chi phí sử dụng tài nguyên biển ở mức chấp nhận được.
Hơn nữa, tương lai rất có thể sẽ xuất hiện ngày càng nhiều tuyến cáp biển cho các nhà máy điện gió gần bờ và ngoài khơi. Thẩm chí có thể xuất hiện “lưới điện đại dương” do Doanh nghiệp nhà nước (như EVN) hoặc doanh nghiệp khác là chủ sở hữu, tương tự như lưới điện truyền tải trên đất liền.
Vì vậy tìm hiểu và thống nhất việc đăng ký khu vực biển cho các tuyến cáp và công trình điện trên biển là rất cần thiết để thống nhất áp dụng. Tài liệu này được lập phục vụ cho mục đích trên, được tham khảo từ các tài liệu được liệt kê ở phần tài liệu tham khảo và bao gồm các phần sau:
a. Nguy cơ thiệt hại cáp ngầm biển
b. Yêu cầu không gian để lắp đặt và bảo dưỡng cáp
c. Mô hình bảo vệ cáp
d. Các quy định pháp luật
e. Đánh giá và khuyến nghị
Những xung đột về không gian giữa các tuyến cáp ngầm đã được lắp đặt và sẽ xuất hiện trong tương lai cũng như các hoạt động hàng hải khác (bao gồm nạo vét ngoài khơi, quy hoạch bãi biển, trang trại gió ngoài khơi và các dự án năng lượng thủy động lực biển) nêu bật nhu cầu cần thiết phải hiểu biết sâu hơn về các yêu cầu không gian đối với việc lắp đặt và bảo trì cáp ngầm, công nhận và thực hiện các tiêu chuẩn và phương pháp phân tách không gian (bao gồm các quy tắc mặc định khi sự phối hợp giữa các hoạt động trên biển không diễn ra) để đảm bảo khả năng phục hồi của cơ sở hạ tầng cáp ngầm và tính liên tục cung cấp điện.
2. Nguy cơ thiệt hại cáp ngầm biển
Mặc dù hư hỏng đối với cáp ngầm biển là rất hiếm nhưng nguyên nhân thường gặp nhất là do các hoạt động của con người như đánh bắt cá thương mại (trong đó lưới kéo, tàu nạo vét nghêu và các thiết bị tiếp xúc với đáy khác), neo tàu, nạo vét liên quan đến khai thác cát và khoáng sản, khai thác dầu khí, xây dựng và bảo trì đường ống, xây dựng và bảo trì các công trình năng lượng tái tạo và các hoạt động khác. Việc sử dụng đáy biển thay đổi theo thời gian và các hoạt động liên quan đến các dự án năng lượng tái tạo nằm gần cáp ngầm làm tăng khả năng gây hư hại cho cáp ngầm. Cáp ngầm cũng có nguy cơ gặp phải các mối nguy hiểm tự nhiên như bão, lở đất dưới nước và các sự kiện địa chấn như động đất và sóng thần. Những rủi ro này có thể tăng lên do việc tập trung các tuyến cáp ở cùng khu vực đáy biển.
Thiệt hại đối với cáp ngầm biển có thể gây ra rủi ro nghiêm trọng cho việc cấp điện cho các đảo cũng như quá trình vận hành của các trang trại điện gió ngoài khơi. Do đó, việc sửa chữa kịp thời là rất quan trọng và các nhà cung cấp dịch vụ bảo trì cũng như tàu cáp tốt nhất phải sẵn sàng ứng phó nhanh chóng, các tàu luôn sẵn sàng với nhân viên có trình độ và thiết bị phù hợp.
2.1 Rủi ro truyền thống
2.1.1 Đánh bắt cá thương mại
Trong lịch sử, hoạt động đánh bắt cá vì mục đích thương mại chiếm hơn 40% tổng số hư hỏng cáp quang biển trên toàn thế giới, như được biểu thị bằng dữ liệu hư hỏng được hiển thị trong hình bên dưới. Dữ liệu này phản ánh thực tế rằng trong hầu hết 160 năm qua, các nhà khai thác cáp quang biển và đánh bắt cá thương mại là hai ngành công nghiệp biển chính tận dụng đáy biển. Thiệt hại liên quan đến đánh bắt cá thương mại thường do các ngư cụ kéo xuống đáy như lưới kéo và tàu nạo vét (để đánh bắt các loài giáp xác) gây ra, nhưng cũng có thể do các dây câu dài neo xuống đáy biển và các nghề đánh bắt bằng lồng và bẫy sử dụng móc để vớt ngư cụ.
Tỷ lệ hư hỏng cáp quang biển theo nguyên nhân từ cơ sở dữ liệu trải dài từ năm 1959 đến năm 2006
Ngành công nghiệp cáp quang biển đã thực hiện một số cách để giảm nhẹ nhằm hạn chế các hư hỏng cáp do đánh bắt cá, bao gồm:
- Bọc thép cho cáp,
- Chôn cáp (từ 0,5 mét đến 3 mét) đối với cáp được lắp đặt ở độ sâu nước dưới 1500 mét,
- Các chương trình liên lạc và nhận thức về cáp được thiết kế để giáo dục các đội tàu đánh cá về vị trí của cáp ngầm và các hành động nhằm xử lý nếu ngư cụ bị vướng và các chương trình bồi thường cho ngư dân vì ngư cụ bị vướng (để họ bỏ lại ngư cụ bị vướng thay vì làm hỏng dây cáp khi cố gắng thu hồi nó).
Trong khi việc đánh bắt cá thương mại tiếp tục là nguy cơ gây hư hại đáng kể nhất đối với cáp quang biển trên toàn thế giới, thì điều này tương đối hiếm đối với cáp điện ngầm biển.
Sự xâm nhập của ngư cụ vào đáy biển đã được một số tác giả nghiên cứu chi tiết. Nghiên cứu của Linnane và cộng sự chỉ ra rằng độ xuyên của ngư cụ được giới hạn ở mức thâm nhập tối đa là 0,3 m ngay cả trong lớp trầm tích mềm (vì thâm nhập sâu hơn sẽ tốn kém nhiều nhiên liệu hơn). Bảng sau tóm tắt kết quả do Linnane đưa ra.
Độ thâm nhập của ngư cụ |
Tài liệu tham khảo |
Ngư cụ |
Đáy biển |
---|---|---|---|
100-150 mm |
Arntz and Weber, 1970 |
Rái cá kéo lưới |
Cát mịn bùn |
Một lớp mỏng |
Bridger, 1970 |
Rái cá đánh lưới |
Cát |
80‐100 mm |
Margetts and Bridger, 1971 |
Lưới kéo |
Cát bùn |
100‐200 mm |
Houghton et al., 1971 |
Lưới kéo |
Cát |
0‐27 mm |
Bridger, 1972 |
Lưới kéo |
Bùn |
Khá hạn chế |
De Clerck and Hovart, 1972 |
Lưới kéo |
Đáy biển gồ ghề |
Vài cm |
Caddy, 1973 |
Rái cá đánh lưới |
Trầm tích cát |
10‐30 mm |
De Groot, 1984 |
Lưới kéo |
Bùn, cát |
200 mm |
Khandriche, et al., 1986 |
Rái cá đánh lưới |
Bùn |
Vài cm |
Blom, 1990 |
Lưới kéo |
Cát |
= 60 mm |
Bergman et al., 1990 |
Lưới kéo |
Cát mịn đến cứng vừa |
5‐200 mm 20‐50 mm |
Krost et al, 1990 |
Con lăn rái cá trên ván đứng |
Bùn Cát |
200 mm |
Laane et al., 1990 |
Lưới kéo |
Bùn, cát |
20‐300 mm |
Rauck, 1988 |
Lưới kéo |
Bùn, Cát |
5‐170 mm |
Rumohr (in Krost et al, 1990) |
Rái cá |
Bùn, cát |
40‐70 mm |
Laban and Lindeboom, 1991 |
Lưới kéo |
Cát mịn |
50‐60 mm |
BEON, 1991 |
Lưới kéo |
Cát mịn |
Vài cm. ‐ 300 mm |
Jones, 1992 |
Ván rái cá |
Sâu nhất trong bùn mềm |
20‐40 mm |
Santbrink and Bergman,1994 |
Lưới kéo |
Trầm tích cát mịn đến trung bình |
15‐70 mm |
De Groot, 1995 |
Lưới kéo |
Trầm tích cát mịn đến trung bình |
~ 140 mm |
Lindeboom and de Groot(edit.), 1998 |
Ván rái cá ở biển Ireland |
Bùn |
Bảng trên cho thấy trong mọi điều kiện địa chất đáy biển, khung kim loại của lưới chỉ thâm nhập tối đa 0,3 m vào đáy biển.
Đối với Việt Nam, việc đánh bắt thủy hải sản có thể không hiện đại như các nước khác trên thế giới và ngư dân là lực lượng rất dễ bị tổn thương do phương tiện lạc hậu, thiếu thông tin và không có khả năng tiếp cận đầy đủ với các quy định của pháp luật.
Vì vậy nên xem xét quy định cáp ngầm biển phải được chôn sâu ít nhất 0,5 m, trường hợp chôn sâu đến độ sâu 0,5 m làm tăng nhiều chi phí thì có thể chôn cạn hơn hoặc đặt ngay trên đáy biển và có biện pháp bảo vệ phù hợp.
Khi đó không nên hạn chế quyền tiếp cận đáy biển của ngư dân.
Ở hầu hết các nước trên thế giới (trừ Nhật Bản) các chủ dự án đều yêu cầu ngư dân không thu hồi ngư cụ khi nó bị vướng vào cáp và các chủ dự án sẽ thay thế ngư cụ mới cho ngư dân. Tuy nhiên, điều này lại phụ thuộc hoàn toàn vào ý thức tự giác của ngư dân (nước ta) vì nó có thể bị lạm dụng.
2.1.2 Neo đậu
Việc neo chiếm khoảng 15% các hư hỏng cáp trên toàn thế giới. Các mối đe dọa khi neo bao gồm: các neo được cố định không đúng cách, có thể vô ý bị tuột hoặc rơi xuống biển và có thể bị kéo đi một quãng đường dài dọc theo đáy biển, làm hỏng các dây cáp dọc theo đường neo; neo đậu ngoài khu neo đậu được quy định và gần các tuyến cáp ngầm đã lắp đặt; và một mỏ neo được thả trong trường hợp khẩn cấp trên biển. Rõ ràng các tuyến cáp sẽ phải đi tránh các khu neo đậu được quy định.
Như vậy ngoài việc neo vô ý bị rơi và khi thả neo khẩn cấp thì các nguy cơ về mỏ neo đến cáp ngầm biển không lớn. Các tuyến cáp ngầm biển chôn dưới đáy biển không làm hạn chế quyền tự do hàng hải và quyền đi lại vô hại theo UNCLOS – 1982 và Luật Biển Việt Nam.
2.1.3 Nạo vét và đổ thải
Việc nạo vét cát và sỏi trong lãnh hải và các bãi biển có thể gây nguy hiểm tới cáp ngầm, có thể bị hư hỏng do chính quá trình nạo vét và do các neo được sử dụng bởi tàu, sà lan và đường ống dùng để thu hồi, vận chuyển và bơm vật liệu nạo vét vào bờ.
Hơn nữa, việc nạo vét cát và sỏi làm xáo trộn trầm tích đáy biển, gây xói mòn ở các khu vực khác khi cát di chuyển đến lấp đầy khu vực được nạo vét. Điều này làm giảm độ sâu chôn của cáp ngầm - khiến chúng có nguy cơ bị hư hại cao hơn do đánh bắt cá thương mại và neo - và có thể làm hỏng cáp do mài mòn. Nếu không có sự tư vấn có hệ thống về việc cấp phép đối với cáp ngầm cũng như thông báo trực tiếp cho các chủ dự án cáp ngầm về các hoạt động nạo vét trước khi thực hiện, các dự án nạo vét này sẽ tiếp tục gây ra mối đe dọa thiệt hại đáng kể cho cáp ngầm.
Tương tự, việc nạo vét luồng cho các bến cảng và kênh như đường thủy nội địa có thể gây rủi ro cho các tuyến cáp ngầm được lắp đặt. Cát, sỏi từ các dự án nạo vét này thường được lưu giữ tại các khu vực được chỉ định ngoài khơi, nếu khu vực này gần tuyến cáp, việc trôi cát có thể vùi cáp sâu hơn chiều sâu thiết kế và làm giảm khả năng tải của cáp.
Vì vậy cần có sự thỏa hiệp với chủ dự án cáp trước khi nạo vét ở gần.
2.1.4 Phát triển dầu khí
Các hoạt động thăm dò, khai thác và vận chuyển dầu khí ngoài khơi không có sự phối hợp gây ra rủi ro đáng kể cho các tuyến cáp ngầm. Nếu không có sự phân chia và phối hợp không gian đầy đủ, các hoạt động dầu khí sẽ đe dọa các tuyến cáp ngầm dưới biển như sau:
- Gây xáo trộn vật lý trực tiếp thông qua việc sử dụng neo cho giàn sản xuất và giàn khoan nửa chìm, tàu hỗ trợ, sà lan và tàu chở dầu; lấy mẫu lõi; máy khoan, máy nạo vét, vòi phun thủy lực và dụng cụ cắt; và ROV - Remotely Operated Vehicle;
- Đường ống ở gần và giao nhau với cáp, gây ra rủi ro nhiễu loạn vật lý trực tiếp trong quá trình lắp đặt, vận hành và bảo trì, đồng thời làm tăng thêm các yêu cầu về độ phức tạp, chi phí và thời gian đáng kể cho hoạt động sửa chữa cáp ngầm (cũng như đường ống liền kề hoặc đường ống cắt ngang); và
- Khả năng tiếp cận cáp ngầm bị suy giảm cả trên bề mặt (đối với tàu cáp) và dưới đáy biển (đối với cáp) - do nhu cầu về không gian cho các tàu cáp lớn có thể cơ động trong các điều kiện đại dương khác nhau trên bề mặt đại dương (có thể bị cản trở bởi sự hiện diện của các giàn khoan, giàn khoan, tàu chở dầu và tàu hỗ trợ) và cho máy cày biển, móc cẩu và ROV dưới đáy biển trong quá trình lắp đặt và bảo trì (có thể bị cản trở bởi nhiều loại thiết bị dầu khí) - tất cả đều tăng mức độ phức tạp, chi phí và thời gian cần thiết để hoàn tất lắp đặt và sửa chữa, đồng thời có thể làm thiệt hại do ngưng cung cấp điện.
Với khuyến nghị 3 của ICPC (International Cable Protection Committee), ngành công nghiệp cáp ngầm đã tìm cách giải quyết các rủi ro các giao chéo đường ống - cáp dưới biển. Thỏa thuận cắt ngang thường được yêu cầu khi cáp và đường ống (hoặc cáp khác) phải cắt nhau. Các thỏa thuận này quy định rõ nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của mỗi bên trong quá trình lắp đặt và vòng đời của nó. Trong trường hợp này, rủi ro sẽ giảm bớt bằng cách thỏa thuận các chi tiết kỹ thuật của việc giao chéo trước khi bắt đầu bất kỳ công việc nào. Trách nhiệm thương mại cũng được thỏa thuận trong trường hợp một bên làm hỏng cáp hoặc đường ống của bên kia.
Mô tả cơ sở hạ tầng dưới biển của giàn khoan dầu khí ngoài khơi và tàu khoan
2.1.5 Phân cụm hệ thống cáp ngầm
Việc phân cụm các dây cáp ngầm dọc theo các tuyến cụ thể (để tránh địa hình đáy biển không thuận lợi, các mối nguy hiểm tự nhiên hoặc các mối nguy hiểm do con người tạo ra như khu vực nạo vét và đổ thải, ngư trường và cơ sở hạ tầng năng lượng) làm tăng nguy cơ việc lắp đặt hoặc bảo trì một dây cáp sẽ gây xáo trộn trực tiếp các tuyến cáp lân cận, chẳng hạn như khi cày và thu hồi sửa chữa cáp. Việc tuân thủ các khuyến nghị của ICPC có thể làm giảm những rủi ro này.
2.1.6 Động đất và sóng thần
Động đất có thể gây ra lở đất dưới đáy biển làm đứt hoặc mài mòn dây cáp. Động đất cũng có thể gây ra sóng thần, sức mạnh của nó có thể làm hỏng cả cáp ngầm và hạ tầng tiếp bờ.
Ở Việt Nam nguy cơ này không đáng kể và không thể xử lý trước.
2.1.7 Địa chất đáy biển
Địa chất của nơi đặt cáp và khu vực ngay ngoài khơi đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các địa điểm tiếp bờ tiềm năng cho hệ thống cáp ngầm. Các nhà khai thác cáp ngầm thích cáp của họ tiếp bờ ở những vị trí có đặc điểm ổn định, thuận lợi.
Các đặc điểm ở đáy như mỏm nhọn hoặc mỏm đá có thể làm lộ cáp, khu vực dòng chảy mạnh có thể dẫn đến cọ sát, bãi thủy triều dài, bằng chứng về lưới kéo (vết lưới kéo), v.v. Cần được xem xét đặc biệt cho cả việc lắp đặt và bảo trì hệ thống cáp ngầm. Những cân nhắc như vậy có thể bao gồm khoan ngang định hướng để bỏ qua đặc điểm đáng lo ngại, chôn cáp xuống đáy để tránh trầy xước, sử dụng máy phun tia sau khi đặt để chôn cáp và sử dụng máy xúc lật và thiết bị xây dựng khi thủy triều xuống để chôn trong các bãi triều.
2.1.8 Thời tiết
Việc lắp đặt hệ thống cáp ngầm dưới biển có thể bị ảnh hưởng hoặc gặp rủi ro do các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt. Các điều kiện thời tiết khắc nghiệt theo mùa như bão, gió giật có thể tạo ra “cửa sổ thời tiết” sẵn sàng để lắp đặt cáp khi được xem xét cùng với khả năng hoạt động của tàu cáp và khả năng đặt và chôn cáp.
Ngoài ảnh hưởng trực tiếp của thời tiết đến việc lắp đặt hoặc bảo trì, các ảnh hưởng phụ như lũ lụt sau bão cũng có thể ảnh hưởng đến các khu vực tiếp bờ của cáp.
2.2 Rủi ro mới nổi
Nhu cầu về các nguồn năng lượng và thân thiện với môi trường đã tạo ra sự quan tâm đáng kể đến ba nguồn năng lượng tái tạo cụ thể: (1) gió ngoài khơi; (2) sóng, thủy triều và dòng hải lưu (gọi chung là năng lượng thủy động học biển (“MHK”)); và (3) chuyển đổi năng lượng nhiệt đại dương (“OTEC”).
Năng lượng gió ngoài khơi là nguồn năng lượng tái tạo ngoài khơi quen thuộc nhất vì công nghệ này đã trưởng thành nhất nhưng người ta vẫn tiếp tục quan tâm đến việc thử nghiệm công nghệ MHK và OTEC với mục tiêu phát triển quy mô thương mại. Cuối cùng, năng lượng tái tạo ngoài khơi dự kiến sẽ chứng tỏ là nguồn năng lượng carbon thấp đáng kể của Việt Nam. Tuy nhiên, việc phát triển năng lượng tái tạo ngoài khơi sẽ gây rủi ro cho cáp ngầm và ngược lại. Vì năng lượng tái tạo ngoài khơi là một ngành mới nổi nên rủi ro vẫn chưa chắc chắn. Do đó, các nhà khai thác cáp ngầm, nhà phát triển năng lượng tái tạo ngoài khơi và cơ quan quản lý vẫn chưa xây dựng các chiến lược giảm thiểu rủi ro có hệ thống cũng như các cơ chế tư vấn và phối hợp.
2.2.1 Dự án biển, thủy động học (MHK) và chuyển đổi năng lượng nhiệt đại dương (OTEC)
Các dự án MHK sử dụng sự nhấp nhô của sóng hoặc vận tốc dòng chảy từ thủy triều, dòng hải lưu hoặc dòng chảy ngược dòng để tạo ra điện mà không cần sử dụng đập.
Các dự án OTEC sử dụng sự chênh lệch nhiệt độ giữa vùng nước sâu mát hơn và vùng nước nông hoặc bề mặt nước ấm hơn để tạo ra điện. Các dự án sẽ được đặt ở vùng nước sâu để tạo ra gradient nhiệt cần thiết cho quá trình chuyển đổi năng lượng. Nguyên tắc cơ bản là bơm nước lạnh sâu lên bề mặt để làm mát chất làm lạnh, chẳng hạn như Amoniac, sau đó được nén và hóa hơi bằng nước bề mặt trước khi đi vào tua-bin.
Các công nghệ này trên thế giới cũng đang ở giai đoạn nghiên cứu và thí điểm. Ở Việt Nam chưa thấy đề cập đến dạng năng lượng này.
2.2.2 Rủi ro phát triển năng lượng tái tạo đối với cáp ngầm
Việc phát triển năng lượng tái tạo không có sự phối hợp gây ra nhiều rủi ro cho cáp ngầm. Những rủi ro này phụ thuộc nhiều vào địa điểm được lựa chọn và thiết kế dự án. Do tính mới mẻ của các dự án năng lượng tái tạo nên các nhà phát triển năng lượng tái tạo không phải lúc nào cũng nhận thức đầy đủ về các hoạt động gần đó của các nhà khai thác cáp ngầm và ngược lại.
Việc bố trí các cơ sở phát điện ngoài khơi và các neo neo gần cáp ngầm làm tăng khả năng xảy ra sự cố cáp do nguy cơ xói mòn đáy biển. Xói mòn đáy biển là tác động của dòng chảy làm xói mòn trầm tích ở các khu vực xung quanh một công trình dưới đáy biển. Việc cọ rửa có thể khiến các dây cáp ngầm, thường được đặt trực tiếp hoặc đào rãnh xuống đáy biển, có nguy cơ gặp phải các mối đe dọa hiện tại và tiềm ẩn. Khi cáp ngầm bị vòng hoặc treo lơ lửng trên đáy biển, chúng phải đối mặt với nguy cơ hư hỏng cao hơn do tiếp xúc với neo, lưới đánh cá và các tác nhân gây hại khác từ môi trường. Tất cả các công trình ngoài khơi đều ảnh hưởng đến điều kiện dòng chảy gần đáy biển, làm tăng khả năng xói mòn. Do đó, xói mòn đáy biển xung quanh các công trình hỗ trợ đặt chìm, có thể khiến các dây cáp ngầm gần đó bị lộ ra.
Việc cọ rửa cũng có thể khiến các nhà khai thác cáp ngầm yêu cầu chôn cáp sâu hơn, khiến việc lắp đặt và thu hồi sau đó để sửa chữa trở nên khó khăn, tốn thời gian và tốn kém hơn. Và các dây cáp ngầm có thể dễ bị tổn thương hơn do sự thay đổi địa hình đáy biển - các trầm tích bị xáo trộn có thể tái lắng đọng phía trên cáp, nhưng ở trạng thái lỏng lẻo hơn, làm tăng nguy cơ xói mòn và mài mòn.
Các dự án năng lượng tái tạo, đòi hỏi phải bố trí và bảo trì các công trình dưới đáy biển hoặc trong cột nước, cũng gây ra rủi ro tương tự đối với cáp ngầm dưới biển cũng như các dự án năng lượng truyền thống, chẳng hạn như phát triển dầu khí, thiếu sự phân tách không gian đầy đủ.
Các dự án năng lượng tái tạo lớn - nếu được bố trí ở vùng nước nông tương đối gần bờ, với cả cơ sở phát điện và cáp truyền tải điện kết nối trở lại bờ - có thể cản trở việc tiếp cận đáy biển để lắp đặt và bảo trì cáp ngầm.
Cáp truyền tải điện gây ra rủi ro vật lý và rủi ro an toàn con người trong quá trình lắp đặt và bảo trì cáp ngầm. Đối với các trang trại gió, chúng thường bao gồm nhiều dây cáp (thường là 3 đến 6 dây đối với các hoạt động lớn hơn) chạy song song với khoảng cách 50 đến 100 mét để đáp ứng công suất yêu cầu. Khi việc giao chéo là không thể tránh khỏi, các thỏa thuận giao chéo giữa các bên liên quan là rất quan trọng để xác định và quản lý rủi ro.
Việc lập kế hoạch, lắp đặt và bảo trì cáp ngầm có thể trở nên khó khăn hơn nếu không có hướng dẫn phân chia cơ sở hạ tầng cụ thể và xác định rõ ràng về quyền của chủ sở hữu cơ sở hạ tầng.
2.2.3 Khai thác biển sâu
Khai thác biển sâu tìm cách thu hoạch các hạt đa kim, lớp vỏ mangan giàu coban và lượng sunfua khổng lồ ở đáy biển. Hiện tại, khai thác biển sâu có rủi ro thấp đối với các dây cáp vì việc khai thác các khoáng sản biển cụ thể vẫn chưa mang lại lợi ích kinh tế. Tuy nhiên, rất có thể các công nghệ được cải tiến (và rẻ hơn) cũng như nhu cầu ngày càng tăng đối với các loại khoáng sản cụ thể (và/hoặc nguồn cung cấp ổn định hơn) sẽ gây ra những mối đe dọa lớn hơn đối với các tuyến cáp ngầm được lắp đặt và hạn chế các tuyến cáp trong tương lai. Các hoạt động khai thác mỏ - cả thăm dò và khai thác - gây xáo trộn vật lý trực tiếp dưới đáy biển, đe dọa hoạt động của các tuyến cáp dưới biển do neo đậu các tàu hỗ trợ sản xuất, sà lan và giàn khai thác; việc sử dụng ROV; lấy mẫu lõi; máy khoan, máy nạo vét, vòi phun thủy lực và dụng cụ cắt; và các hệ thống gầu hoặc hệ thống thủy lực dùng để vận chuyển khoáng sản từ đáy biển lên bề mặt. Tương tự như vậy, các hoạt động khai thác khoáng sản có nguy cơ xói mòn và mài mòn tương tự như các hoạt động trang trại gió; sự mất ổn định của đáy biển; và trầm tích tái lắng đọng. Tất cả những điều này có thể dẫn đến việc lộ ra hoặc treo các dây cáp phía trên đáy biển, khiến chúng có nguy cơ bị hư hại cao do tàu thuyền giao thông, lưới đánh cá và neo, cũng như nguy cơ các mảnh vụn tích tụ trên dây cáp. Cuối cùng, các dự án phát triển ngoài khơi lớn cản trở việc tiếp cận các hệ thống cáp điện và viễn thông dưới biển cả trên mặt biển (đối với các tàu cáp) và dưới đáy biển.
Để giải quyết những lo ngại này tại các khu vực biển sâu ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia, ICPC đã ký kết một biên bản ghi nhớ với Cơ quan Đáy biển Quốc tế quy định việc khai thác biển sâu ở các khu vực ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia được gọi theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển - cung cấp trao đổi dữ liệu để hỗ trợ các chủ sở hữu cáp ngầm tránh các khu vực khai thác biển sâu và ngược lại. Trong phạm vi lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, nơi các quốc gia ven biển có quyền tài phán, các nhà khai thác cáp ngầm phải phối hợp với các cơ quan quản lý quốc gia của các quốc gia ven biển đó.
3. Yêu cầu không gian để lắp đặt và bảo dưỡng cáp
Để lắp đặt và bảo trì cáp ngầm cũng như giảm thiểu thời gian ngừng hoạt động khi sửa chữa, các nhà khai thác cáp ngầm yêu cầu tàu cáp và thiết bị có khả năng tiếp cận mặt biển, cột nước và đáy biển xung quanh cáp ngầm một cách sẵn sàng và không bị cản trở. Để đạt được điều này và giảm thiểu xung đột với các hoạt động biển khác, các nhà khai thác cáp ngầm sử dụng nhiều cơ chế phối hợp và hợp tác khác nhau. Chúng bao gồm các tiêu chuẩn về khoảng cách và giao cắt cáp, các chương trình nâng cao nhận thức về cáp và tiếp cận cộng đồng, phối hợp với những người sử dụng khác ở khu vực biển và ven biển (đặc biệt là ngư dân thương mại) và quy hoạch không gian biển. Một chế độ bảo vệ cáp ngầm hiệu quả phải tính đến các đặc tính vật lý của cáp ngầm và các đặc tính cơ học của tàu và dụng cụ lắp đặt. Những đặc điểm này - cùng với điều kiện thời tiết, biển và đáy biển - quyết định rất nhiều chi tiết cụ thể của việc lắp đặt hoặc sửa chữa cáp nhất định.
3.1. Đặc điểm cáp
Bất kỳ chế độ bảo vệ cáp nào cũng phải tính đến các đặc tính vật lý của cáp ngầm và các đặc tính cơ học của tàu và dụng cụ lắp đặt và sửa chữa.
Những đặc điểm này - cùng với các điều kiện thời tiết, biển và đáy biển - quyết định rất nhiều chi tiết cụ thể của việc lắp đặt hoặc sửa chữa cáp nhất định cũng như tác động của nó, nếu có, đối với môi trường biển và ven biển.
Lớp bọc thép của cáp giúp bảo vệ cáp dưới biển khỏi các sự cố gây ra trong môi trường biển và ven biển. Sự cố là sự kiện liên quan đến cáp ngầm được lắp đặt yêu cầu thực hiện một số hoạt động bảo trì hoặc sửa chữa để đảm bảo cáp tiếp tục hoạt động bình thường. Sự cố có thể do sự xâm hại từ bên ngoài hoặc tự nhiên. “Sự xâm hại từ bên ngoài” - các sự kiện kích hoạt lỗi do bên thứ ba và thiết bị của họ gây ra - chiếm hơn 80% các lỗi hệ thống cáp ngầm. Trong số các sự kiện xâm hại từ bên ngoài này, đánh bắt cá thương mại vẫn là nguyên nhân chính (đối với cáp quang biển), chỉ đứng sau việc thả neo tàu. “Sự xâm hại tự nhiên” - các sự kiện gây ra lỗi do mài mòn và hoạt động địa chất cũng như do hỏng hóc các bộ phận. Độ bền kéo, khả năng chống va đập và mài mòn giúp bảo vệ cáp không chỉ trong môi trường biển và ven biển mà còn khỏi chính các hoạt động lắp đặt và bảo trì (cụ thể là khỏi bị đưa qua máy cày biển).
3.2 Nghiên cứu và khảo sát tuyến đường biển
Để xác định tuyến an toàn nhất và kinh tế nhất cho tuyến cáp ngầm mới, chủ sở hữu sẽ thực hiện một nghiên cứu trên máy tính (DTS – Desk Top Study) và khảo sát biển. Hai hoạt động này sẽ cố gắng xác định tất cả các rủi ro được thảo luận trong phần trên và xác định tuyến cáp an toàn nhất.
Thông qua nghiên cứu, chủ sở hữu và nhà cung cấp thường có thể giảm thiểu hoặc loại bỏ các mối nguy hiểm và xung đột. Tuy nhiên, với sự phát triển ngày càng tăng của đáy biển trong lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ngoài, sự sẵn có của các tuyến phù hợp chưa được sử dụng sẽ cạn kiệt dần, buộc các nhà khai thác cáp ngầm phải chấp nhận ít nhất một số rủi ro.
Để đảm bảo xác định hiệu quả các mối nguy hiểm hiện tại và tương lai, các quy trình này thường bao gồm việc tham vấn với ngư dân thương mại và các hiệp hội của họ, các cơ quan địa phương, Bộ, Ngành liên quan.
Các nhà khai thác cáp ngầm đánh giá các tuyến đường và địa điểm tiếp bờ tiềm năng để tính đến một số yếu tố vật lý có thể xác định chi phí và rủi ro, bao gồm:
- bối cảnh kiến tạo và hình thái đáy biển liên quan và thạch học,
- lịch sử địa chất,
- địa chấn,
- đứt gãy bề mặt,
- dòng chảy đục,
- sóng trầm tích,
- sóng cát,
- rạn san hô,
- hoạt động núi lửa,
- bãi biển và sự ổn định của đáy biển gần bờ: điều này bao gồm việc xác định tính chất và thành phần của đất bãi biển và đất gần bờ cũng như kiểm tra các chỉ số về sự mất ổn định của đường bờ biển như sự hiện diện của các cồn cát ngoài khơi, hiện tượng rửa trôi, xói mòn và sụt lún bãi biển,
- đánh giá địa chất và chôn lấp ngoài khơi: điều này bao gồm các đoạn dọc theo tuyến đường đề xuất nơi có thể cần phải chôn cáp (tức là mức độ hoạt động cao/xâm lấn từ bên ngoài) và nơi đất có thể tốt/khó khăn cho việc chôn cáp,
- các biến động địa chất khác.
Họ cũng kiểm tra các yếu tố kỹ thuật và nhân tạo khác, chẳng hạn như lịch sử sự cố trước đây đối với cáp trong khu vực, xu hướng đánh bắt cá thương mại, hoạt động trầm tích, mô hình tập trận quân sự, khu vực môi trường nhạy cảm và các cấu trúc dưới đáy biển khác. Sau đó, các nhà khai thác cáp ngầm sẽ sử dụng kết quả khảo sát tuyến để điều chỉnh tuyến cáp ban đầu được xác định trong DTS.
3.3. Vận hành cáp
Tàu cáp là tàu lớn (thường có chiều dài hơn 125 mét) cần có không gian để cơ động khi lắp đặt hoặc sửa chữa cáp ngầm và để thích ứng với ảnh hưởng của thời tiết xấu trên đại dương. Các hoạt động phát triển ngoài khơi liên quan đến các công trình lớn, như giàn khoan dầu, tháp tua-bin và các công trình chìm dưới nước, gây trở ngại khiến tàu cáp không thể tiếp cận đáy biển để lắp đặt mới (và để sửa chữa các dây cáp đã lắp đặt trước đó). Giao thông tàu hạng nặng, hoạt động đánh cá hoặc quân sự và các hạn chế theo mùa cũng có thể cản trở hoặc trì hoãn việc lắp đặt.
Tàu Victoria – NKT
Thông số kỹ thuật: Kích thước 140m x 31m – Mớn nước 7m
Các hoạt động phát triển ngoài khơi bao trùm các khu vực rộng lớn dưới đáy biển làm cho các dự án cáp ngầm mới phải đi vào các “khoảng trống” dưới đáy biển giữa các hoạt động phát triển ngoài khơi, điều này hạn chế khả năng tiếp cận của các tàu cáp và thiết bị cần thiết để lắp đặt cáp (máy cày trên biển) và sửa chữa (móc cáp và ROV) tới đáy biển và cáp được đặt ở đó. Kết quả là làm cho các nhiệm vụ lắp đặt và bảo trì cáp vốn đã phức tạp lại trở nên phức tạp hơn theo cấp số nhân, nghĩa là các lỗi cáp sẽ được sửa chữa chậm hơn và thời gian ngừng hoạt động của hệ thống sẽ kéo dài hơn, đồng thời chi phí cho các nhà khai thác và khách hàng mà họ phục vụ có thể tăng lên đáng kể.
3.4. Lắp đặt
Hoạt động lắp đặt cáp được tiến hành 24/24. Đầu cáp được thả nổi vào bờ từ tàu cáp chính hoặc từ tàu cáp phụ nhỏ hơn. Nếu sử dụng tàu phụ để lắp đặt sẵn phía bờ thì tàu cáp sẽ nối vào đầu bờ và tiếp tục rải. Ở những khu vực gần bờ, cáp thường được chôn để bảo vệ nó khỏi mối nguy hiểm được mô tả ở trên. Ở những khu vực hạn chế, nơi không có rủi ro đáng kể khi đánh bắt hoặc neo đậu hoặc nơi đáy biển không cho phép chôn cất, nó sẽ được đặt trên bề mặt đáy biển. Trong quá trình lắp đặt, điều quan trọng là cáp phải nằm phẳng. Vòng lặp không được tồn tại vì nhiều lý do, người lắp đặt cáp sử dụng nhiều kỹ thuật và phần mềm quản lý độ trễ (tốc độ nhả cáp) khác nhau để giảm thiểu những rủi ro này.
3.5. Thu hồi cáp
Để thu hồi cáp từ đáy biển cho mục đích sửa chữa, tàu có thể tự thực hiện bằng cách kéo móc cẩu qua tuyến cáp để lấy cáp hoặc triển khai ROV tùy theo điều kiện biển. Việc sử dụng ROV được giới hạn ở độ sâu nông hơn từ 50 đến 2000 mét với dòng chảy vừa phải và tầm nhìn tốt. Vì vậy, hầu hết việc thu hồi cáp đều được thực hiện bằng móc cẩu. Và để lấy cáp bị chôn vùi ở bất kỳ độ sâu nào, tàu cáp sử dụng một dụng cụ tháo rãnh, kích thước và trọng lượng của nó tăng theo độ sâu của nước.
Móc cẩu (dù là cáp đặt trên bề mặt hay cáp chôn) được hạ xuống đáy biển từ các dây cáp trên tàu cáp và kéo theo hướng vuông góc với cáp. Điều này cho phép móc cẩu đào xuống đáy biển sâu bên dưới dây cáp, tối đa hóa khả năng móc treo sẽ móc vào cáp (chứ không phải sượt qua hoặc vô tình thả nó ra) và đưa nó lên bề mặt đáy biển. Công nghệ định vị tàu hiện tại cho phép đặt thiết bị này cực kỳ chính xác và thu hồi cáp có kiểm soát. Tuy nhiên, thời tiết xấu, biển động hoặc dòng chảy mạnh có thể làm giảm độ chính xác của các hoạt động này - tình huống gây ra rủi ro lớn hơn cho các cáp ngầm khác hoặc hệ thống lắp đặt dưới đáy biển gần cáp mục tiêu.
Cái móc cẩu dài 1 mét điển hình để thu hồi cáp
3.6. Mối nối và sửa chữa
Cáp ngầm bị hỏng phải được sửa chữa trên tàu cáp. Tuy nhiên, một sợi cáp (dù có căng hay không) đặt trên hoặc chôn dưới đáy biển sẽ không có đủ độ chùng để kéo tới bề mặt biển để sửa chữa. Do đó, trừ khi cáp đã bị đứt, trước tiên nó phải được cắt để đưa lên bề mặt. Hoạt động thu hồi cáp này mất ít nhất ba lần kéo móc - một chiếc để cắt cáp, chiếc thứ hai để nâng và đỡ một đầu cáp, và chiếc thứ ba để nâng và đưa đầu thứ hai lên tàu. Sau khi các đầu được sửa chữa và kiểm tra, một đoạn cáp mới phải được nối vào giữa hai đầu để nối. Phần bổ sung này thường dài gấp hai lần rưỡi độ sâu của nước. Chiều dài này cho phép cáp trước đây nằm phẳng trên đáy biển có thể chạm tới tàu cáp, cung cấp chiều dài cho các hoạt động thao tác và sửa chữa trên tàu và chạm xuống đáy biển.
Ví dụ về một lần sửa chữa cáp ngầm biển:
Điểm sự cố cáp:
Tàu dùng thêm dây để kéo tàu theo hướng vuông góc với dây cáp ban đầu rồi hạ xuống đáy biển. Chỉ với cách bố trí cẩn thận này, tàu sửa chữa mới có cơ hội đặt cáp phẳng trở lại dưới đáy biển.
4. Mô hình bảo vệ cáp
Hầu hết các mô hình bảo vệ cáp đều tập trung vào việc ngăn cách không gian giữa cáp ngầm với các hoạt động trên biển khác (bao gồm cả các loại cáp ngầm khác). Với sự tách biệt vừa đủ, nguy cơ xáo trộn trực tiếp qua thiết bị hoặc neo hoặc cản trở việc tiếp cận bảo trì kịp thời sẽ được giảm thiểu. Các tổ chức trong ngành đã phát triển các khuyến nghị và tiêu chuẩn về cách ly. Họ cũng đã xây dựng cơ chế phối hợp với các ngành hàng hải khác để giảm thiểu rủi ro. Nhiều Chính phủ nước ngoài đã áp dụng luật và chế độ bảo vệ cáp có hệ thống hơn, bao gồm cả các kế hoạch phân chia không gian chính thức. Ngoài ra, ngành công nghiệp cáp đã ký thỏa thuận với các tổ chức đánh bắt cá thương mại địa phương để đồng ý phối hợp các hoạt động định tuyến và đánh bắt cá ở các khu vực đánh bắt cá nơi có cáp và với các công ty dầu khí để quản lý các điểm giao cắt đường ống.
4.1 Tiêu chuẩn ngành và chương trình nhận thức về cáp
Các nhà khai thác cáp ngầm có lịch sử lâu dài trong việc phát triển các tiêu chuẩn ngành và các chương trình nâng cao nhận thức về cáp để tăng cường bảo vệ cáp và hướng dẫn những người khác hoạt động trong môi trường biển. Những nỗ lực này bao gồm các tiêu chuẩn liên quan đến việc phân chia không gian của cơ sở hạ tầng hàng hải, thông báo cho cơ quan quản lý hải đồ về các vị trí cáp ngầm được lắp đặt và chia sẻ thông tin vị trí với ngư dân thương mại. Những hoạt động này giúp nâng cao nhận thức và hiểu biết về cáp ngầm và thúc đẩy các biện pháp giảm thiểu rủi ro mà các Chính phủ có thể phản ánh trong các quy định pháp lý trong nước và có thể được phản ánh trong các thỏa thuận tự nguyện liên ngành. Trong trường hợp của AuStralia và New Zealand, Cơ quan Truyền thông và Truyền thông AuStralia (“ACMA”) và Bộ Giao thông Vận tải lần lượt đảm nhận việc phổ biến thông tin về tuyến cáp và liên lạc trực tiếp với các ngành đánh bắt cá và hàng hải, bổ sung cho các nỗ lực của ngành.
4.1.1 Ủy ban Bảo vệ cáp quốc tế - International cable protection committee (ICPC)
Ở cấp độ quốc tế, Ủy ban Bảo vệ cáp quốc tế là hiệp hội công nghiệp cáp ngầm quốc tế hàng đầu. ICPC được thành lập vào năm 1958 và có trụ sở tại London. ICPC hiện có 143 thành viên đại diện cho hơn 60 quốc gia. Các thành viên bao gồm chủ sở hữu cáp ngầm, cơ quan bảo trì, nhà sản xuất hệ thống, nhà khai thác tàu cáp, công ty khảo sát biển và Chính phủ. ICPC tìm cách bảo vệ cáp ngầm khỏi các mối nguy hiểm do con người tạo ra và tự nhiên.
Trong nhiều hoạt động của mình, ICPC đã ban hành các khuyến nghị xác định các tiêu chuẩn tối thiểu cho việc quy hoạch, lắp đặt, vận hành, bảo trì và bảo vệ tuyến cáp:
ICPC |
Mục |
Khuyến nghị |
1 |
10 |
Khôi phục khi cáp không còn hoạt động: Tài liệu này cung cấp các khuyến nghị của ICPC liên quan đến việc khôi phục khi hệ thống cáp ngầm dưới biển bị dư thừa hoặc đã ngừng hoạt động. Được xem xét là các yêu cầu pháp lý, mối quan tâm về môi trường, cứu hộ và ở gần với cơ sở hạ tầng lân cận (các dây cáp khác, cơ sở dầu khí, v.v.) |
2 |
10 |
Tiêu chí báo cáo và định tuyến cáp: Khuyến nghị này cung cấp các tiêu chí thông báo và định tuyến cáp tổng quát mà ICPC khuyến nghị nên sử dụng khi thực hiện các hoạt động quy hoạch tuyến cáp trong đó cáp được lắp đặt giao nhau, tiếp cận gần hoặc song song với hệ thống cáp hiện có hoặc theo quy hoạch. Đối với các cáp ngầm song song, Khuyến nghị này khuyến nghị khoảng cách phân tách ít hơn bằng 3 lần độ sâu của nước hoặc nếu không thể đạt được thì bằng 2 lần độ sâu của nước sau khi tham khảo ý kiến và thỏa thuận giữa các bên bị ảnh hưởng. |
3 |
10 |
Tiêu chí giao cắt cáp viễn thông và đường ống dẫn dầu/cáp điện: Việc tiếp tục gia tăng cả về số lượng cáp ngầm cũng như việc khai thác dầu khí từ đáy biển đồng nghĩa với việc sẽ có thêm nhiều trường hợp cáp viễn thông, cáp điện, đường ống xuyên qua nhau. Mục đích của tài liệu này là đưa ra hướng dẫn cho những người đang gặp phải tình huống này và cung cấp một số câu hỏi cơ bản cần được đặt ra như bước đầu tiên trong việc xem xét bất kỳ điểm vượt biển nào được đề xuất để có thể xác định các khu vực quan tâm và phát triển các giải pháp được cả hai bên chấp nhận. |
4 |
8 |
Quy trình phối hợp cho các hoạt động sửa chữa hệ thống cáp gần với công trình khác: Tài liệu này cung cấp các quy trình được khuyến nghị liên quan đến mọi hoạt động sửa chữa được thực hiện gần các hệ thống cáp đang hoạt động. Các quy trình này áp dụng cho hoạt động sửa chữa của hệ thống cáp đang hoạt động ở vùng lân cận của bất kỳ cáp đi qua hoặc cáp nào song song gần nhau. Các cân nhắc cần giải quyết bao gồm khoảng cách gần nhau, hoạt động của tàu, các phương án thu hồi cáp, lập kế hoạch sửa chữa, thiết lập các điểm liên lạc và các hướng dẫn cụ thể khác ngoài địa điểm. |
6 |
8A |
Các hành động để bảo vệ cáp hiệu quả (Sau khi lắp đặt) Khuyến nghị này liên quan đến các biện pháp sau lắp đặt nhằm giảm thiểu nguy cơ đứt cáp do các hoạt động của con người như đánh cá và neo tàu gây ra. Các biện pháp như vậy thường được gọi là liên lạc hàng hải, liên lạc ngoài khơi hoặc nhận thức về cáp. Các biện pháp khác nhau có thể phù hợp ở những khu vực khác nhau, ngay cả khi chỉ sử dụng một hệ thống cáp. Các biện pháp này phải tính đến đặc điểm của các thủy thủ khác nhau hoạt động trên từng khu vực như ngư dân, thương nhân, hoa tiêu, chính quyền cảng, sĩ quan quân đội, cán bộ quản lý giao thông hàng hải, người điều khiển tàu khai thác tài nguyên, v.v. Những điều kiện và rủi ro này có thể xảy ra và thay đổi theo thời gian. |
7 |
6 |
Công việc xây dựng dân dụng ngoài khơi gần hệ thống cáp ngầm đang hoạt động Tài liệu này khuyến nghị nên tuân theo quy trình khi công trình dân dụng hoặc công trình xây dựng ngoài khơi được thực hiện gần các hệ thống cáp ngầm đang hoạt động. Công ty xây dựng chịu trách nhiệm về công trình dân dụng/kết cấu nên thảo luận kế hoạch của họ với chủ sở hữu cáp có trách nhiệm để xác định các vấn đề và trách nhiệm pháp lý về vận hành và bảo trì có thể ảnh hưởng đến cáp ngầm hoặc cấu trúc theo kế hoạch. Công ty xây dựng nên làm việc với chủ sở hữu cáp để xác định chính xác vị trí thực tế của hệ thống cáp trong vùng lân cận các công trình dân dụng được quy hoạch. Tùy thuộc vào hoàn cảnh, công việc định vị có thể yêu cầu thợ lặn hoặc phương tiện điều khiển từ xa (ROV) để hỗ trợ công việc định vị cáp. |
8 |
7A |
Công việc khảo sát địa chấn ngoài khơi trong khu vực lân cận của hệ thống cáp ngầm đang hoạt động Hệ thống cáp ngầm đang hoạt động bao gồm các thiết bị quang điện được yêu cầu để quản lý tín hiệu theo từng khoảng thời gian dọc theo tuyến của nó. Nếu các bộ phận bên trong của các thiết bị chìm này chịu gia tốc lớn hơn thông số kỹ thuật thì sẽ có nguy cơ hư hỏng nghiêm trọng. Tài liệu này khuyến nghị nên tuân theo quy trình khi công việc khảo sát địa chấn ngoài khơi được thực hiện ở vùng lân cận các hệ thống cáp ngầm đang hoạt động, nơi chúng được lắp đặt ở độ sâu nước từ 200 mét trở xuống. |
13 |
2 |
Khoảng cách gần của việc lắp đặt năng lượng gió tái tạo ngoài khơi và cơ sở hạ tầng cáp ngầm dưới biển ở vùng biển quốc gia Tài liệu này cung cấp hướng dẫn về những cân nhắc cần được đưa ra khi phát triển các dự án cần có sự thỏa thuận gần nhau giữa các dự án trang trại gió ngoài khơi và các dự án cáp ngầm trong vùng biển quốc gia. Tài liệu này đề cập đến các hạn chế về lắp đặt và bảo trì liên quan đến các công trình trang trại gió, các dây cáp liên quan và các loại cáp ngầm khác mà các công trình và cáp ngầm đó sẽ chiếm các khu vực gần đáy biển. |
Khuyến nghị 13 của ICPC Số 2, được thiết kế để áp dụng cho các dự án năng lượng gió ngoài khơi, tuy nhiên, khuyến nghị của ICPC về quá trình tham vấn các bên liên quan và xem xét các vùng an toàn có thể áp dụng tốt cho các dự án thủy động học sóng và thủy triều (MHK). Mặc dù khuyến nghị thiết lập một phương pháp xác định giới hạn khoảng cách cụ thể của địa điểm, nó thiết lập khoảng cách phân tách mặc định cho vùng nước nông hơn:
Vùng làm việc cho các kịch bản sửa chữa truyền thống có thể sẽ nằm trong phạm vi 500 m ở mỗi bên của cáp ngầm ngầm hiện có. Điều này dựa trên diện tích dự kiến cần thiết để thực hiện việc xác định vị trí lỗi cáp bằng cách sử dụng các điện cực kéo, dụng cụ kẹp và các hoạt động triển khai sửa chữa. Hướng dẫn trong tài liệu này được coi là phù hợp với độ sâu nước lên tới 75m.
4.1.2 Hiệp hội cáp ngầm Bắc Mỹ
Tại Hoa Kỳ, Hiệp hội Cáp ngầm Bắc Mỹ (“NASCA”) là tổ chức bảo vệ cáp và công nghiệp cáp ngầm hàng đầu. NASCA phát triển các tiêu chuẩn và quy trình để chính quyền liên bang, tiểu bang và địa phương phê duyệt các loại cáp ngầm mới, thường xuyên tham vấn với các ngành công nghiệp hàng hải khác, phổ biến thông tin về các cáp ngầm đã được lắp đặt (bao gồm dữ liệu danh sách vị trí tuyến cáp (“RPL”) cho các cáp ngầm được lắp đặt của các thành viên), và nâng cao nhận thức của công chúng về cáp ngầm. NASCA tham gia trực tiếp với tư cách là tổ chức các bên liên quan trong Hội đồng Đại Tây Dương (“MARCO”) và Hội đồng Đại dương khu vực Đông Bắc (“NROC”). Về việc giảm thiểu rủi ro liên quan đến cơ sở hạ tầng năng lượng tái tạo, NASCA đã tán thành các khuyến nghị của ICPC và hướng dẫn chính của Subsea Cables UK về việc phân tách không gian giữa cáp ngầm và các cơ sở năng lượng gió ngoài khơi.
4.1.3 Subsea cables UK
Subsea Cables UK là tổ chức công nghiệp cáp ngầm chính ở Vương quốc Anh và tập trung vào an toàn hàng hải và bảo vệ cáp ngầm khỏi các mối nguy hiểm do con người và tự nhiên tạo ra. Subsea Cables UK có nhiều kinh nghiệm làm việc với ngành đánh bắt cá thương mại và ngành năng lượng gió ngoài khơi trong các vấn đề liên quan đến việc sử dụng chung đáy biển.
Vì ngành công nghiệp năng lượng gió ngoài khơi của Vương quốc Anh đã phát triển nhiều nên ngành công nghiệp cáp ngầm và năng lượng gió ngoài khơi đã có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc phối hợp và bảo vệ các hoạt động tương ứng của họ ngoài khơi bờ biển Vương quốc Anh. Subsea Cables UK đã làm việc với Crown Estate và các nhà phát triển trang trại gió ngoài khơi để phát triển hướng dẫn 6 của SCUK, khoảng cách gần của việc lắp đặt năng lượng tái tạo ngoài khơi và cơ sở hạ tầng cáp ngầm ở vùng biển Vương quốc Anh (“hướng dẫn SCUK 6”), đề cập đến “các hạn chế về lắp đặt và bảo trì liên quan đến công trình trang trại gió, cáp liên quan và các loại cáp ngầm khác nơi các công trình và cáp ngầm đó sẽ chiếm các khu vực gần đáy biển”. Hướng dẫn của SCUK Số 6 thiết lập các nguyên tắc cơ bản để xác định khoảng cách lân cận an toàn và đàm phán các thỏa thuận lân cận nhằm đảm bảo có thể được áp dụng tốt như nhau cho các dự án năng lượng thủy triều và sóng. Hướng dẫn 6 của SCUK và các nguyên tắc cơ bản của nó phải được tuân thủ đối với tất cả các dự án cho đến khi ngành phát triển các hướng dẫn cụ thể cho cơ sở hạ tầng năng lượng sóng và thủy triều.
4.2 Khoảng cách tách biệt mặc định và tối thiểu
Khoảng cách phân tách mặc định thiết lập khoảng cách phân tách tối thiểu giữa cáp ngầm hiện có và hoạt động biển hoặc ven biển khác (đôi khi bao gồm cả việc gánh chịu trách nhiệm pháp lý hoặc thanh toán trả trước để chi trả cho nguy cơ hư hỏng tiềm ẩn đối với cáp ngầm). Khoảng cách tách biệt tối thiểu thiết lập khoảng cách tách biệt tối thiểu tuyệt đối giữa cáp ngầm và hoạt động biển hoặc ven biển khác.
Phù hợp với ICPC và các tiêu chuẩn ngành khác, nhiều nước đã thiết lập khoảng cách cách ly mặc định hoặc tối thiểu để bảo vệ cáp ngầm. Ví dụ:
- Trung Quốc: Luật pháp quốc gia thiết lập các vùng bảo vệ xung quanh cáp ngầm 50 mét ở khu vực bến cảng, 100 mét ở vùng nước ven biển hẹp và 500 mét ở vùng nước ven biển rộng.
- Đan Mạch: Quy định quốc gia yêu cầu thiết lập vùng bảo vệ cáp 200 mét mỗi bên của hệ thống cáp ngầm được lắp đặt và cấm neo đậu, lắp đặt đường ống, nạo vét và sử dụng thiết bị dưới đáy biển trong các vùng bảo vệ đó.
- Indonesia: Các quy định quốc gia quy định việc thiết lập một khu vực hạn chế có chiều rộng 3500 mét xung quanh bất kỳ cáp ngầm nào và yêu cầu bất kỳ cáp bổ sung nào phải được đặt cách nhau ít nhất 500 mét.
- Nhật Bản: Luật bảo vệ cáp của Nhật Bản quy định việc chỉ định khu vực bảo vệ không quá 1000 mét xung quanh cáp ngầm.
- Nga: Quy định quốc gia yêu cầu thiết lập vùng an ninh 0,25 hải lý (463 m) ở hai bên cáp ngầm.
- Singapore: Luật hàng hải quốc gia cho phép thiết lập cơ chế bảo vệ các khu vực xung quanh các dây cáp ngầm hiện có (mà luật pháp Singapore gọi là “hành lang”) và có thể yêu cầu các tàu không tuân thủ phải bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu cáp.
- Vương quốc Anh: Tổ chức quản lý hàng hải, đóng vai trò là cơ quan quản lý hàng hải của Vương quốc Anh, khuyến nghị một vùng “loại trừ” 500 mét xung quanh các dây cáp (250 mét mỗi bên của cáp), cộng thêm một vùng “đệm” 250 mét cho tất cả các mục đích sử dụng dưới đáy biển “để tránh thiệt hại.”
4.3 Khu bảo vệ cáp và hành lang
Không giống như khoảng cách phân tách mặc định hoặc vùng đệm, vùng và hành lang bảo vệ cáp nghiêm cấm các hoạt động cụ thể gây rủi ro cho cáp ngầm - bao gồm đánh bắt cá, neo đậu và nạo vét - trong các khu vực địa lý cố định. Vùng bảo vệ cáp cung cấp sự bảo vệ cho các cáp ngầm được đã lắp đặt hoặc quy hoạch.
Ngược lại, các hành lang yêu cầu các nhà khai thác cáp ngầm phải định tuyến cơ sở hạ tầng của họ trong các khu vực địa lý xác định. Cả Úc và New Zealand - những nước có chế độ bảo vệ cáp tiên tiến nhất thế giới - đã thiết lập các vùng bảo vệ cáp. Hầu hết các quốc gia đã hạn chế thiết lập các hành lang ngoại trừ các bến cảng hoặc các khu vực biển bị hạn chế khác.
Theo đạo luật viễn thông Úc, ACMA có thể tuyên bố vùng được bảo vệ trên một hoặc nhiều dây cáp. Các khu bảo vệ này có thể nằm trong lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hoặc trên thềm lục địa. Các vùng bảo vệ theo đạo luật kéo dài tới một hải lý ở hai bên của cáp hoặc ở khu vực giữa các dây cáp. Trong khu vực bảo vệ này, một loạt các hoạt động có thể bị cấm hoặc hạn chế và có sẵn các quy trình cấp phép đặc biệt nếu thích hợp. Trong trường cáp bị hư hỏng theo cách trực tiếp hoặc gián tiếp, chủ sở hữu cáp có thể yêu cầu người đã vi phạm vùng bảo vệ và làm hỏng cáp bồi thường thiệt hại.
Ở New Zealand, Đạo luật bảo vệ đường ống và cáp ngầm dưới biển năm 1996 và Nghị định thư truy tố do Bộ Giao thông Vận tải ban hành với sự tham vấn của chủ sở hữu các đường ống hoặc cáp ngầm chính cập bến New Zealand. Zealand thiết lập một khuôn khổ các khu vực bảo vệ đối với cáp ngầm, cáp truyền tải điện, đường ống dẫn dầu và khí đốt cũng như các hành vi vi phạm hình sự và phạt tiền đối với hành vi làm hư hỏng cáp ngầm, cáp truyền tải điện và đường ống. New Zealand hiện có 11 vùng bảo vệ cáp, được giám sát bởi các lực lượng tuần tra trên biển và trên không. Mức phạt dao động từ 2.000 đô la New Zealand đối với hành vi phạm tội chèo thuyền giải trí trong khu vực bảo vệ đến 100.000 đô la New Zealand đối với hành vi đánh bắt hoặc thả neo liên quan đến lợi ích thương mại trong khu vực bảo vệ.
Các nhà khai thác cáp ngầm nhìn chung có quan điểm đồng thuận về các khu vực bảo vệ cáp. Các khu vực bảo vệ cáp, chẳng hạn như của Úc và New Zealand, thường bao gồm các khu vực biển rộng lớn nhằm cung cấp đủ sự tách biệt giữa các dây cáp cho mục đích lắp đặt và bảo trì. Tuy nhiên, quy mô của các vùng bảo vệ cáp có thể khiến chúng không khả thi ở các khu vực biển và ven biển đã được phát triển mạnh.
Ngược lại, các nhà khai thác cáp ngầm thường bày tỏ mối quan ngại về hành lang cáp vì lo ngại rằng các hành lang đó (a) có thể bị thu hẹp và do đó tạo ra sự tách biệt không gian không đủ với các cáp ngầm khác để lắp đặt và bảo trì, (b) khuyến khích phân cụm cáp ngầm theo địa lý, làm tăng nguy cơ một sự kiện tự nhiên hoặc nhân tạo có thể làm hỏng nhiều cáp và (c) giới hạn các lựa chọn tiếp bờ ở các điểm ven biển cụ thể.
5. Các quy định của pháp luật
5.1. Cáp ngầm được hưởng các quyền và sự bảo vệ theo hiệp ước quốc tế
Luật Quốc tế công nhận các quyền tự do (duy nhất đối với cáp biển) trong việc lắp đặt và bảo trì cáp ngầm biển. Các quyền và tự do này không được áp dụng cho các hoạt động liên quan đến năng lượng, đánh bắt cá thương mại hoặc vận tải biển và đôi khi các quyền và tự do này được ưu tiên về mặt pháp lý so với các quyền và tự do khác.
Nhiều hiệp ước quốc tế khác nhau có từ năm 1884 đảm bảo các quyền tự do duy nhất trong việc đặt, bảo trì và sửa chữa các dây cáp ngầm - các quyền tự do không được cấp cho bất kỳ hoạt động biển nào khác - và hạn chế khả năng của các quốc gia ven biển trong việc quản lý chúng. Các nguyên tắc được nêu rõ trong các hiệp ước này, các điều ước quốc tế đã được công nhận là luật tập quán quốc tế.
Cụ thể, các hiệp ước này đảm bảo:
- Quyền tự do lắp đặt các dây cáp ngầm trên các vùng biển ngoài thềm lục địa và sửa chữa các dây cáp hiện có mà không bị cản trở hay thành kiến;
- Quyền tự do lắp đặt và bảo trì cáp ngầm trên thềm lục địa, phải tuân theo các biện pháp hợp lý để thăm dò thềm lục địa và khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa;
- Khả năng lắp đặt cáp ngầm trong lãnh thổ hoặc lãnh hải của một quốc gia tùy thuộc vào các điều kiện và việc thực thi quyền tài phán quốc gia; và
- Quyền tự do duy trì các dây cáp ngầm hiện có đi qua vùng biển của một quốc gia quần đảo mà không đổ bộ vào đất liền.
Các nghĩa vụ theo hiệp ước này hiện được coi là luật tập quán quốc tế.
Vì mục đích của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, cáp ngầm được phân biệt với (1) đảo nhân tạo, (2) các công trình lắp đặt dùng để thăm dò hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên sinh vật hoặc phi sinh vật hoặc cho “các mục đích kinh tế khác” và (3) các công trình có thể cản trở việc thực thi các quyền của quốc gia ven biển trong vùng EEZ hoặc trên thềm lục địa. Mặc dù các hiệp ước này cho phép các quốc gia ven biển thực hiện các biện pháp hợp lý, tôn trọng việc khai thác tài nguyên thiên nhiên trên thềm lục địa, nhưng chúng cấm các quốc gia thực hiện các biện pháp đó đối với cáp ngầm trong việc xây dựng và sửa chữa chúng. Các điều khoản của hiệp ước này được phản ánh trong quan điểm chính thức của Văn phòng Các vấn đề pháp lý của Liên hợp quốc về các vấn đề Đại dương và Luật Biển quy định về cáp quang biển:
“ngoài giới hạn bên ngoài của lãnh hải 12 hải lý, Quốc gia ven biển không được (và không nên) cản trở việc lắp đặt hoặc bảo trì các dây cáp, mặc dù việc phân định lộ trình để lắp đặt trên thềm lục địa phải được sự đồng ý của nước đó. Quốc gia ven biển chỉ có quyền tài phán đối với các dây cáp được xây dựng hoặc sử dụng liên quan đến việc thăm dò thềm lục địa hoặc khai thác tài nguyên của mình hoặc hoạt động xây dựng các đảo nhân tạo và công trình thuộc quyền tài phán của mình.”
Do đó, Quốc gia ven biển phải từ bỏ việc áp đặt bất kỳ hạn chế nào đối với việc lắp đặt hoặc bảo trì cáp ngầm dưới biển trừ khi chính các cáp ngầm đó được sử dụng để thăm dò hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Các quốc gia ven biển cũng có nghĩa vụ ngăn chặn sự cố ý hoặc vô ý làm hư hại các dây cáp. Tất cả các quốc gia “phải quan tâm đúng mức đến các dây cáp hoặc đường ống đã được lắp đặt.”. Các quốc gia ven biển và các quốc gia quần đảo có quyền thông qua các luật và quy định để bảo vệ các dây cáp dưới biển một cách an toàn. Tôn trọng việc tàu nước ngoài thực hiện quyền đi lại vô hại.
5.2. Các tội liên bang về hư hỏng cáp của Hoa Kỳ New Zealand
Để tham khảo, đoạn này trình bày một số hình phạt của Hoa Kỳ, quốc gia có quy định lỏng lẻo nhất về cáp biển và New Zealand (cùng với Úc) là quốc gia có các quy định nghiêm ngặt nhất về bảo vệ cáp biển.
Luật pháp Hoa Kỳ quy định rằng việc làm hư hỏng cáp ngầm - dù cố ý hay do sơ suất - là một hành vi phạm tội liên bang có thể bị trừng phạt bằng hình thức phạt tiền, phạt tù hoặc cả hai. Tuy nhiên, các hình phạt không có khả năng ngăn chặn hành vi gây thiệt hại do cẩu thả hoặc cố ý và thậm chí không bao gồm chi phí sửa chữa. Đối với hành vi cố ý gây thiệt hại, luật pháp Hoa Kỳ quy định mức phạt lên tới 5.000 USD và/hoặc phạt tù không quá hai năm. Đối với hành vi gây thiệt hại do cẩu thả, luật pháp Hoa Kỳ quy định mức phạt lên tới 500 USD và thời hạn tù không quá ba tháng. Luật Liên bang áp đặt nghĩa vụ đối với các tàu đánh cá phải giữ lưới không gây cản trở hoặc làm hỏng các dây cáp ngầm và yêu cầu các tàu đánh cá phải duy trì khoảng cách tối thiểu với bất kỳ tàu nào tham gia rải cáp ngầm hoặc bất kỳ phao nào được đặt để đánh dấu vị trí của cáp ngầm. Cũng như các điều khoản xử phạt khác theo luật Hoa Kỳ, các hình phạt đối với việc ngư dân can thiệp hoặc làm hỏng cáp có rất ít giá trị răn đe, vì họ cho phép phạt tiền lên tới 250 USD và thời hạn tù không quá 10 ngày. Tuy nhiên, chủ sở hữu cáp ngầm có quyền kiện theo luật pháp Hoa Kỳ để bồi thường thiệt hại cho cáp của họ.
Ngược lại, các quốc gia như Australia và New Zealand - đã thực hiện các chế độ bảo vệ cáp tiên tiến nhất thế giới - áp đặt các hình phạt đáng kể đối với những hư hỏng cáp và đạt được khả năng răn đe lớn hơn nhiều.
Ở New Zealand, Đạo luật Bảo vệ đường ống và Cáp ngầm dưới biển năm 1996 (“SCCPA” phần lớn dựa trên khuôn khổ pháp lý của Australia) và Nghị định thư truy tố do Bộ Giao thông Vận tải ban hành với sự tham vấn của chủ sở hữu các đường ống hoặc cáp ngầm chính cập bến New Zealand. Zealand, thiết lập một khuôn khổ các khu vực bảo vệ đối với cáp ngầm, cáp truyền tải điện, đường ống dẫn dầu và khí đốt cũng như các hành vi vi phạm hình sự và phạt tiền đối với hành vi làm hư hỏng cáp ngầm, cáp truyền tải điện và đường ống. New Zealand hiện có 11 vùng bảo vệ cáp, được giám sát bởi các lực lượng tuần tra trên biển và trên không. Mức phạt dao động từ 2.000 đô la New Zealand đối với hành vi phạm tội chèo thuyền giải trí trong khu vực bảo vệ đến 100.000 đô la New Zealand đối với hành vi đánh bắt hoặc thả neo liên quan đến lợi ích thương mại trong khu vực bảo vệ.
5.3. Các quy định của Việt Nam có liên quan cáp biển
Các tìm kiếm trên mạng không cho kết quả nào về quy định cụ thể về bảo vệ cáp ngầm biển ở Việt Nam.
Thực tế các hoạt động xây dựng công trình điện trên biển có nhiều cơ quan liên quan đến việc cấp phép khu vực biển như UBND cấp huyện có thẩm quyền cấp phép khu vực biển trong vùng 03 hải lý (phục vụ nuôi trồng thủy hải sản), UBND cấp tỉnh cấp phép trong vùng biển 06 hải lý và Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép bên ngoài khu vực biển bên ngoài 06 hải lý và biển liên vùng (cả bên trong 06 hải lý). Ngoài ra còn phải có ý kiến thông qua của các Bộ Quốc phòng, Giao thông Vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn…
Tuy nhiên, trong vấn đề quản lý và điều phối liên ngành để hướng dẫn về các vấn đề liên quan đến cáp ngầm dưới biển, Cục Hàng hải Việt Nam nên là cơ quan điều phối và tổng hợp thông tin.
5.3.1 Quy phạm trang bị điện
Điều II.3.12. Việc xây dựng đường cáp phải theo đúng các yêu cầu trong quy định hiện hành về bảo vệ an toàn lưới điện cao áp.
Hành lang bảo vệ đường cáp ngầm giới hạn như sau:
1. Chiều dài: tính từ vị trí cáp chui ra khỏi ranh giới phạm vi bảo vệ của trạm này đến trạm kế tiếp.
2. Chiều rộng: giới hạn bởi 2 mặt phẳng thẳng đứng và song song về hai phía của tuyến cáp (đối với cáp đặt trực tiếp trong đất, trong nước) hoặc cách mặt ngoài của mương cáp (đối với cáp đặt trong mương) về mỗi phía được quy định trong bảng sau:
Loại cáp điện |
Đặt trong mương |
Đặt trong đất |
Đặt trong nước |
||
Đất ổn định |
Đất không ổn định |
Không có tàu thuyền qua lại |
Có tàu thuyền qua lại |
||
Khoảng cách, m |
0,5 |
1,0 |
1,5 |
20 |
100 |
Cũng theo Điều II.3.12 Quy phạm Trang bị điện, “…cấm xây dựng các công trình, thả neo tàu thuyền trong hành lang bảo vệ đường cáp”.
5.3.2 Nghị định số 14/2014/NĐ-CP và Nghị định số 51/2020/NĐ-CP:
Tại điểm b khoản 2 Điều 14 Nghị định số 14/2014/NĐ-CP, Hành lang bảo vệ an toàn đường cáp điện ngầm quy định như sau:
Hai mặt thẳng đứng cách mặt ngoài của vỏ cáp hoặc sợi cáp ngoài cùng về hai phía của đường cáp điện ngầm đối với cáp đặt trực tiếp trong đất, trong nước được quy định trong bảng sau:
Loại cáp điện |
Đặt trực tiếp trong đất |
Đặt trong nước |
||
Đất ổn định |
Đất không ổn định |
Nơi không có tàu thuyền qua lại |
Nơi có tàu thuyền qua lại |
|
Khoảng cách |
1,0 m |
1,5 m |
20,0 m |
100,0 m |
5.3.3 Nghị định số 58/2017/NĐ-CP:
Khoản 2 Điều 27 Nghị định số 58/2017/NĐ-CP (ngày 10/5/2017 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Hàng hải Việt Nam về quản lý hoạt động hàng hải) quy định như sau: “Các công trình lắp đặt, xây dựng trong vùng biển Việt Nam phải có phạm vi an toàn ít nhất là 500 m tính từ mép ngoài cùng của công trình. Trong phạm vi 02 hải lý tính từ mép ngoài công trình, các tàu thuyền không có nhiệm vụ không được thả neo.”.
5.3.4 Nghị định số 143/2017/NĐ-CP:
Nghị định số 143/2017/NĐ-CP ngày 12/12/2027 của Chính phủ Quy định bảo vệ công trình hàng hải.
Nghị định này Quy định về bảo vệ công trình cảng và luồng hàng hải là chính. Đối với công trình ngoài khơi chỉ có quy định cho công trình dầu khí, báo hiệu hàng hải.
Phạm vi bảo vệ công trình cảng dầu khí ngoài khơi được giới hạn bởi vành đai an toàn có chiều rộng 500 m tính từ điểm nhô ra xa nhất của công trình cảng dầu khí ngoài khơi và vùng cấm hàng hải, thả neo có chiều rộng 02 hải lý tính từ vị trí tọa độ của công trình cảng dầu khí ngoài khơi (khoản 4 Điều 5).
Khoản 9 Điều 5: Phạm vi bảo vệ công trình báo hiệu hàng hải được tính từ tâm của báo hiệu hàng hải (tâm của đèn biển, tâm của rùa neo phao báo hiệu nổi) ra phía ngoài được xác định theo quy chuẩn kỹ thuật báo hiệu hàng hải, cụ thể như sau:
a) Tối thiểu 60 m đối với đèn biển có tầm hiệu lực ánh sáng lớn hơn 20 hải lý hoặc phao báo hiệu nổi có độ sâu tại vị trí thả phao lớn 20 m tính đến mực nước thấp thiết kế;
b) Tối thiểu 50 m đối với đèn biển có tầm hiệu lực ánh sáng lớn hơn từ 15 hải lý đến 20 hải lý hoặc phao báo hiệu nổi có độ sâu tại vị trí thả phao từ 16 m đến 20 m tính đến mực nước thấp thiết kế;
c) Tối thiểu 40 m đối với đèn biển có tầm hiệu lực ánh sáng lớn hơn từ 10 hải lý đến 15 hải lý hoặc phao báo hiệu nổi có độ sâu tại vị trí thả phao từ 12 m đến 16 m tính đến mực nước thấp thiết kế;
d) Tối thiểu 30 m đối với đèn biển có tầm hiệu lực ánh sáng nhỏ hơn 10 hải lý hoặc phao báo hiệu nổi có độ sâu tại vị trí thả phao từ 8 m đến 12 m tính đến mực nước thấp thiết kế;
đ) Tối thiểu 20 m đối với báo hiệu hàng hải khác.
6. Đánh giá và khuyến nghị
Các khuyến nghị ở đây phục vụ cho việc xác định khu vực biển có trả phí cho công trình Cấp điện từ lưới điện quốc gia cho huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
6.1. Cáp ngầm biển
Không chỉ cáp ngầm biển, mọi công trình trên biển đều phải có khoảng cách tách biệt không gian với các công trình khác một cách hợp lý để bảo đảm an toàn công trình cũng như có đủ không gian phục vụ sửa chữa, thu hồi công trình khi cần thiết.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, tàu thuyền không được neo đậu trong phạm vi 02 hải lý quanh công trình. Cáp ngầm biển cũng được hưởng đặc quyền này mà không phải trả bất kỳ chi phí nào. Cáp ngầm biển không ảnh hưởng gì đến việc đi lại của tàu thuyền trên biển và trong cột nước.
Cũng theo quy định của pháp luật Việt Nam (cũng như phần lớn các nước nêu tại Mục 4.2), các công trình lân cận trên biển phải cách nhau tối thiểu 500 m. Trong khi Trung Quốc quy định nhỏ hơn (50 m, 100 m và 500 m tùy theo vùng biển hẹp, rộng) và Indonesia quy định rất rộng (3500 m quanh công trình).
Nếu đăng ký khu vực biển rộng 500 m quanh công trình như trên thì có thể hoặc quá rộng (dẫn đến tốn nhiều phí tài nguyên biển) hoặc không đủ phục vụ sửa chữa công trình (khi nước sâu). Việc sử dụng khoảng cách tách biệt không gian như Trung Quốc có thể làm giảm chi phí nhưng cũng không phản ánh thực tế nhu cầu khu vực biển thật sự cần thiết cho tuyến cáp.
Nếu hai tuyến cáp ngầm biển hoặc một tuyến cáp ngầm biển và một công trình dạng tuyến khác đặt song song cách nhau 500 m (theo quy định trên) thì khi sửa chữa tuyến cáp việc nối lại cáp và thả cáp trở lại đáy biển lệch tâm tuyến (buộc phải thả trở lại đáy biển lệch tâm tuyến hiện hữu) về phía phía tuyến cáp còn lại hoặc công trình dạng tuyến khác sẽ vi phạm khoảng cách 500 m theo quy định. Vì vậy việc sử dụng quy định 500 m như trên cho cáp biển chưa thật sự phù hợp, nó có thể không đủ không gian có sẵn cho việc sửa chữa tuyến cáp.
Theo Mục 3.6, đáy biển cần thiết cho việc sửa chữa một tuyến cáp tối thiểu là 2,5 lần chiều sâu nước tại khu vực sự cố. Trên mặt biển và trong cột nước, khoảng cách 500 m như quy định hiện tại cơ bản đủ không gian cơ động cho tàu sữa chửa cáp (đối với vùng nước dự án Côn Đảo).
Như vậy, có thể xem xét đăng ký khu vực biển cho tuyến cáp Côn Đảo (có trả phí) như sau:
Từ tim tuyến cáp ra mỗi bên một khoảng bằng 2,5 lần chiều sâu nước. Phạm vi công trình cáp lúc này là 5 lần chiều sâu nước và các công trình lân cận khác phải cách mép phạm vi công trình cáp ít nhất 500 m theo quy định của pháp luật; đối với khu vực nước cạn, không có tàu thuyền qua lại phạm vi công trình là 20 m theo 14/2014/NĐ-CP.
Ngoài ra, khoản 1 Điều 3 Nghị định số 11/2021/NĐ-CP, quy định ranh giới, diện tích khu vực biển như sau:
“Ranh giới khu vực biển được xác định bởi đường khép kín bao gồm các đoạn thẳng nối các điểm khép góc có tọa độ cụ thể”…
Vì vậy, ranh giới khu vực biển cho công trình cáp ngầm biển nên quy định:
- không nhỏ hơn 2,5 lần chiều sâu nước từ tim tuyến cáp ra mỗi bên;
- không nhỏ hơn 20 m từ tim tuyến ra mỗi bên;
- hình dáng cụ thể (gồm các đoạn thẳng nối các điểm khép góc) của khu vực biển sẽ do Tư vấn thiết kế xây dựng;
- phạm vi công trình tính từ ranh khu vực biển đăng ký.
6.2. Đường dây trên không trên biển
Đối với đường dây trên không trên biển, trong quá trình thiết kế đã có sự chấp thuật của cơ quan chức năng về khoang thông thuyền (khoảng cách giữa các cột điện) và tĩnh không thông thuyền. Vì vậy, ngoài các vị trí móng trên biển, đường dây trên không trên biển không ảnh hưởng đến các hoạt động hàng hải khác trong phạm vi được chấp thuận. Khi đó đăng ký khu vực biển cho đường trên không có thể thực hiện cho từng vị trí móng.
Khi sự cố trong vận hành (như đổ cột) cần phải xây dựng cột mới trên tim tuyến đường dây để thay thế cột đổ và không gian cho vị trí cột mới này luôn sẵn sàng dưới tim tuyến đường dây.
Khoảng cách mặt biển và cột nước 500 m giữa các công trình theo quy định của pháp luật hiện hành hoàn toàn đủ khoảng không gian cơ động cho tàu thi công và sửa chữa đường dây.
Hiện nay chỉ có quy định khoảng cách an toàn cho công trình ngoài khơi là công trình dầu khí, đèn và phao báo hiệu hàng hải.
Xét tính chất tương tự, có thể quy định về khu vực biển quanh móng tương tự cho phao báo hiệu hàng hải theo quy định tại Nghị định số 143/2017/NĐ-CP (Mục 5.3.4 ở trên), theo đó khu vực an toàn quanh phao là một khoảng cách quy định tối thiểu theo chiều sâu nước.
Phao báo hiệu hàng hải là công trình nổi trên biển, trong khi móng cột điện là công trình đứng tự do (cố định) trên biển nên việc áp dụng tương tự cho phao sẽ nghiêng về phía an toàn và có thể quy định đúng bằng số tối thiểu cho phao.
Ngoài ra, trên móng cột điện trên biển có lắp đèn báo hiệu hàng hải. Theo điểm đ khoản 9 Điều 5 Nghị định số 143/2017/NĐ-CP, đây là “báo hiệu hàng hải khác”, phạm vi bảo vệ công trình tối thiểu trong trường hợp này là 20 m.
Để đơn gian xem xét quy định khu vực biển đăng ký quanh móng cách mép đài móng một khoảng bằng:
- 2,5 lần chiều sâu nước tại tim móng;
- không nhỏ hơn 20 m;
- không lớn hơn 60 m; (các quy định khoảng cho phao tại khoản 9 Điều 5 Nghị định số 143/2017/NĐ-CP cơ bản bằng 2,5 lần chiều sâu nước).
- phạm vi công trình tính từ ranh khu vực biển đăng ký.
6.3. Đăng ký khu vực biển cho công trình Côn Đảo
Theo quy định hiện hành, hàng lang và diện tích chiếm đất trên bờ đều thực hiện theo Quy phạm Trang bị điện và các Nghị định số 14/2014/NĐ-CP và Nghị định số 51/2020/NĐ-CP.
Vì vậy để có cơ sở đăng ký khu vực biển cho dự án cần có ý kiến thống nhất của Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp - Bộ Công Thương - hoặc điều chỉnh/bổ sung Nghị định số 14/2014/NĐ-CP.
Thực hiện: Trương Văn Cường
Tài liệu tham khảo:
- Protection of Submarine Cables Through Spatial Separation), Working Group 8 - Submarine Cable Routing and Landing (Communications Security, Reliability and Interoperability Council – USA) - 12/2014;
- Carbon Trust Company – Cable Burial Risk Assessment Methodology – 2015;
- Thomas Worzyk – Submarine Power Cables: Design, Installation, Repair, Environmental Aspects – Springer;
- UNCLOS 1982;
- Luật Hàng hải Việt Nam;
- Quy phạm Trang bị điện - 2006;
- Nghị định số 14/2014/NĐ-CP và Nghị định số 51/2020/NĐ-CP;
- Nghị định số 58/2017/NĐ-CP;
- Nghị định số 143/2017/NĐ-CP;
- Nghị định số 11/2021/NĐ-CP.